Chủ Nhật, 20 tháng 1, 2019
Các biện pháp Mỹ trừng phạt trung Quốc trên biển đông .
Để răn đe hành động quân sự hóa Biển Đông của Trung Quốc, ông Mazza đề xuất Mỹ nên áp đặt chế tài đối với các công ty Trung Quốc tham gia bồi đắp đảo và triển khai các máy bay tác chiến điện tử luân phiên đến Philippines để phá sóng lực lượng của Trung Quốc. Trường hợp Trung Quốc triển khai lực lượng ra Đá Vành Khăn mà họ chiếm của Philippines hồi năm 1995 thì Washington cần đáp trả bằng việc triển khai binh lực ra các thực thể mà Manila hiện kiểm soát.
Ngoài ra, ông Mezza còn đề xuất Mỹ nên tạm dừng cấp thị thực du học cho con em các quan chức và các lãnh đạo doanh nghiệp Trung Quốc, treo lại chương trình thị thực đầu tư EB-5 cho các công dân Trung Quốc và cho phép các quan chức chạy trốn chiến dịch truy quét tham nhũng mang tên ‘Săn cáo’ của Chính phủ Trung Quốc được trú ẩn ở Mỹ. “Điều này sẽ gây áp lực trực tiếp lên giới lãnh đạo Trung Quốc,” ông phân tích.
Một biện pháp leo thang đáp trả mà ông Mezza cho rằng Mỹ nên tính tới là tấn công vào những điều mà Bắc Kinh cho là ‘lợi ích cốt lõi’ của họ - tức là những lợi ích mà Bắc Kinh không thể nào nhượng bộ dù chỉ một chút và sẵn sàng dùng tất cả các biện pháp, kể cả quân sự, để bảo vệ. Tấn công vào các ‘lợi ích cốt lõi’, bao gồm Đài Loan, Tân Cương và Tây Tạng, do đó, sẽ khiến Trung Quốc tổn thương nặng và khiến họ đáp trả quyết liệt.
Theo đó, ông đề xuất Bộ Ngoại giao Mỹ nên công bố báo cáo về tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với Tây Tạng và Tân Cương và nêu ra những lập trường có thể của Mỹ đối với những tuyên bố chủ quyền này (riêng về Đài Loan, Mỹ đã có lập trường đối với chính sách ‘Một Trung Quốc’ kể từ Thông cáo Thượng Hải năm 1972 cũng như đạo Luật về Quan hệ với Đài Loan năm 1979) và thiết lập Viện Mỹ ở Dharamsala để nâng cấp quan hệ giữa Mỹ và chính phủ lưu vong Tây Tạng.
Tăng cường hiện diện quân sự
Để đảm bảo tự do hàng hải trên Biển Đông, thì bên cạnh các chiến dịch tuần tra bảo vệ tự do hàng hải (FONOP) vốn được các chính quyền Barack Obama và Donald Trump tiến hành nhưng không thường xuyên, ông Mezza còn đề xuất rằng Mỹ cần thực hiện liên tục quyền tự do hàng hải của tàu bè đi lại trên Biển Đông.
Ông cho rằng số liệu hiện nay cho thấy mặc dù mỗi ngày Mỹ ít nhất có từ hai đến ba tàu bè đi lại trên Biển Đông, nhưng con số này là ‘không đủ’ so với thách thức hiện nay từ Trung Quốc, và rằng sự di chuyển của tàu bè thông thường sẽ không mang tính khiêu khích đối với Bắc Kinh như FONOP.
Ngoài ra, theo ông Mezza, Washington cần tăng cường hơn nữa sự hiện diện quân sự, nếu cần có thể thiết lập thêm căn cứ thường trực, trên Biển Đông để gửi tín hiệu đến Bắc Kinh rằng việc họ đang tìm cách kiểm soát vùng biển và vùng trời Biển Đông ‘là vô ích’. Ông Mezza đặc biệt nhắm đến các đối tác Philippines, Singapore và Việt Nam.
Dưới chính sách xoay trục về châu Á của cựu Tổng thống Barack Obama để kiềm chế sự lớn mạnh của Trung Quốc (sau này đã bị Tổng thống Donald Trump bãi bỏ và thay bằng chính sách Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương mở và tự do), Mỹ đã củng cố mối quan hệ an ninh với các đối tác xung quanh Biển Đông.
Đối với Philippines, vốn là một đồng minh có hiệp ước của Mỹ, hai nước đã ký kết Hiệp ước Hợp tác Phòng vệ Tăng cường (EDCA) hồi năm 2014. Nhưng hiệp ước này có nguy cơ bị lung lay dưới thời của Tổng thống Rodrigo Duterte vốn ngày càng xích lại gần Trung Quốc. Tuy nhiên, trong cuộc gặp tại Manila hồi tháng 11 năm 2017, Tổng thống Trump và Tổng thống Duterte đã tái khẳng định mối quan hệ đồng minh có hiệp ước cũng như đảm bảo cam kết với EDCA.
Trong khi đó Singapore ngày càng nổi lên như là một đối tác an ninh đáng tin cậy của Mỹ đến gần mức độ như là ‘đồng minh không chính thức’. Họ đã cho Mỹ triển khai máy bay quân sự Poisedon 8 đến lãnh thổ của họ và cho phép tàu chiến thân cạn (LCS) luân phiên đồn trú.
Còn đối với Việt Nam, chính quyền Obama đã dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương và hỗ trợ tàu tuần tra cho lực lượng cảnh sát biển. Một giới chức Mỹ gần đây cho VOA biết Hà Nội cũng đã thương thảo hợp đồng vũ khí trị giá gần 100 triệu đô la với Washington. Ông Mezza dự báo rằng về lâu dài phía Mỹ có thể bán cho Việt Nam máy bay chiến đấu và trực thăng tấn công.
Tuy nhiên, mục tiêu của Mỹ đối với Việt Nam ‘nên là căn cứ thường trực hoặc được phép cho quân đội ra vào cảng Cam Ranh một cách luân phiên’. Tuy nhiên, chính sách ngoại giao độc lập, tự chủ của Hà Nội, hay còn được biết đến là chính sách ‘3 không’ khiến Washington khó lòng đạt được mục tiêu này.
“Nếu các nước đông nam Á thật lòng muốn có sự hiện diện quân sự của Mỹ để có thể thay đổi tính toán của Trung Quốc thì họ cần phải có bước đi để tạo điều kiện cho sự hiện diện đó,” ông viết.
Nếu Mỹ có thể tăng cường sự hiện diện ở Philippines (đông Biển Đông), thiết lập sự hiện diện ở Việt Nam (tây Biển Đông) và với sự hiện diện sẵn có ở Singapore (nam Biển Đông), thì Mỹ có thể ‘đáp trả nhanh chóng các vụ việc xảy ra trên các chuỗi đảo tranh chấp hay các hành vi Trung Quốc quấy rối và tấn công lực lượng hải quân và không quân của Mỹ cũng như của các nước đồng minh’.
Sự hiện diện dàn trải ở khắp nơi trên Biển Đông như thế, theo ông Mezza, sẽ phức tạp hóa việc hoạch định chính sách quân sự và tính toán chính trị của Bắc Kinh do họ phải ‘tính toán đến việc tấn công vào nhiều quốc gia có chủ quyền’. Ngoài ra, việc rải lực lượng như thế còn có thể giúp các lực lượng Mỹ có thể hỗ trợ lẫn nhau nếu xảy ra khủng hoảng.
Ngoài ra, Mỹ cũng cần tiếp tục tăng cường năng lực cho các nước đối tác này để họ có thể kiểm soát vùng biển chủ quyền và vùng đặc quyền kinh tế của họ một cách hiệu quả, ông đề xuất. Mặc dù năng lực quân sự của những nước này không thể nào bằng được Trung Quốc nhưng việc họ tăng cường khả năng quân sự có thể khiến Bắc Kinh phải suy nghĩ kỹ hơn trước khi có hành động cưỡng chế.
Tham gia giải quyết tranh chấp
Trên mặt trận ngoại giao, ông Mezza đề xuất Mỹ nên tích cực tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp với các bên thay vì giữ lập trường trung lập như lâu nay. “Hóa ra là Mỹ có lợi ích trong việc tranh chấp được giải quyết như thế nào,” ông nhận định.
Theo ông, nếu như tranh chấp được giải quyết theo chiều hướng có lợi cho Trung Quốc thì đó sẽ là hồi chuông báo động đối với Mỹ.
“Hãy tưởng tượng nếu như Trung Quốc có thể đảm bảo chủ quyền với với tất cả các thực thể có tranh chấp trên Biển Đông mà không phải tốn một viên đạn. Do Trung Quốc có thái độ chống lại các chuẩn mực thông thường như tự do hàng hải và tham vọng bá quyền rõ ràng của họ ở châu Á thì một thực tế như thế sẽ là một bước ngoặt không thể nào chấp nhận được đối với Mỹ và các đồng minh,” ông phân tích.
Trước mắt, một trong những hành động ngoại giao mà Mỹ có thể làm là hối thúc các bên nhanh chóng hoàn tất bộ Quy tắc Ứng xử trên Biển Đông (COC). Kể từ Tuyên bố về Quy tắc Ứng xử (DOC) được đưa ra hồi năm 2002, quá trình đàm phán COC đã kéo dài mãi bất chấp sức ép từ phía Mỹ. Một phần lý do là Trung Quốc không muốn bị ràng buộc bởi các quy định về COC trước khi họ hoàn tất các công việc xây dựng và bố trí lực lượng trên Biển Đông. Một số các nhà quan sát còn cho rằng Bắc Kinh đang cố gắng câu giờ COC cho đến khi họ hoàn tất bố trí lực lượng trên bãi cạn Scarborough.
Ông đề xuất Mỹ và các đối tác bên ngoài nên khuyến khích các bên đàm phán trong ASEAN đặt ra thời hạn chót – tối đa là sáu tháng – để hoàn tất việc đàm phán COC và trong khi đàm phán các bên phải đóng băng việc xây dựng trên các thực thể. Trường hợp Bắc Kinh không đồng ý thì các nước ASEAN sẽ bắt đầu một tiến trình ngoại giao mới để đàm phán về các chuẩn mực ứng xử và tiến tới phân định ranh giới chủ quyền mà không có Bắc Kinh tham gia, theo kiến nghị của tác giả.
“Bắc Kinh có thể chọn lựa tham gia vào đàm phán hay chứng kiến các tranh chấp được giải quyết mà không có ý kiến của họ,” ông viết.
“Các nước có tranh chấp sẽ không có bước đi này nếu như họ không tin vào sự hậu thuẫn của Mỹ. Mỹ nên nói rõ ràng họ sẽ ủng hộ và bảo vệ các thỏa thuận đạt được miễn là chúng tôn trọng luật pháp quốc tế và xâm phạm lợi ích của Mỹ.”
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét